Các nghiên cứu gần đây ở Na Uy đã mở ra một cơ hội mới để sử dụng axit béo đa không bão hòa Omega-3. Các đặc tính chống viêm của axit docosahexaenoic (DHA) và eicosapentaenoic (EPA) mang đến những quan điểm mới trong điều trị trẻ em bị hen suyễn nhẹ và trung bình.
Axit béo không bão hòa đa hen suyễn
Những người bị hen suyễn sau khi gắng sức về thể chất thường bị phế quản, viêm đường hô hấp. Thông thường họ nên ăn nhiều thực phẩm có hàm lượng axit béo omega-6 cao. Omega-3 trong hầu hết các trường hợp bị cả bác sĩ và bệnh nhân bỏ qua. Các nghiên cứu về bệnh hen đã chỉ ra rằng một lượng hàng ngày là 320 mg EPA và 200 mg DHA dẫn đến giảm thể tích tế bào và các dấu hiệu viêm trong các mẫu chất nhầy. Những quan sát tương tự đã được thực hiện ở Na Uy trên trẻ em bị hen suyễn.
Omega-3 ở trẻ bị hen suyễn
Hen suyễn gây ra rối loạn hệ hô hấp, kèm theo những cơn ho thường xuyên, tức ngực và thở khò khè trong quá trình thở. Ở Na Uy, một trong bốn trẻ em dưới 16 tuổi bị hen suyễn, trong dân số trưởng thành của đất nước, tỷ lệ mắc giảm xuống còn 8%.
Nghiên cứu có sự tham gia của 39 trẻ em ở các độ tuổi khác nhau. Mỗi ngày họ uống một viên omega-3 trong 90 ngày. Một lượng axit béo không bão hòa đa bao gồm 180 mg EPA và 120 mg DHA. Ở trẻ em, chức năng phổi và nội dung tế bào T (tế bào trợ giúp) đã được phân tích.
Kết quả cho thấy Omega-3 có thể làm giảm các triệu chứng hen suyễn. Một lượng nhỏ chất đi vào cơ thể mỗi ngày đã dẫn đến sự cải thiện chức năng phổi và giảm các yếu tố gây viêm hen (IL-17 và TNF-α).
Các nhà nghiên cứu kết luận rằng các chất bổ sung dựa trên các sản phẩm chống viêm tự nhiên, như Omega-3, là một bổ sung hiệu quả cho phương pháp điều trị chính.
Omega-3 giúp cải thiện tình trạng của bệnh nhân hen suyễn. Tuy nhiên, cần hiểu rằng các chất phụ gia cấp dược phẩm đã được tham gia vào các nghiên cứu. Các vật liệu được lọc kỹ ở cấp độ phân tử để loại bỏ các tạp chất có hại, chẳng hạn như thủy ngân. Các cửa hàng bổ sung chế độ ăn kiêng với Omega-3 có thể không đủ chất lượng, và do đó hiệu quả của chúng sẽ không cao.
Tóm tắt
Omega-3 là phức hợp gồm 10 axit có đặc tính và cấu trúc sinh hóa tương tự. Ở người, chúng không thể được tổng hợp độc lập. Axit béo omega-3 đến từ thực phẩm: dầu thực vật và cá béo. Chúng dễ bị oxy hóa và hư hỏng, có hại cho cơ thể. Điều quan trọng là phải quan sát thời hạn sử dụng và điều kiện bảo quản của sản phẩm, chỉ sử dụng các sản phẩm tươi với Omega-3.
Axit béo omega-3 được quy định để phòng ngừa và điều trị nhiều bệnh:
• Tăng huyết áp: hạ độ nhớt và huyết áp.
• Bệnh tiểu đường Axit điều chỉnh lượng đường trong máu.
• Bệnh tự miễn. Omega-3 có tác dụng tích cực đối với các triệu chứng của bệnh vẩy nến, lupus ban đỏ và viêm khớp dạng thấp, nhưng không làm chậm sự tiến triển của bệnh.
• Loãng xương Giảm nguy cơ tổn thương xương.
• Bệnh tâm thần. Các triệu chứng tâm thần phân liệt, trầm cảm, rối loạn lưỡng cực đều giảm.
• Sa sút trí tuệ. Thiếu Omega-3 làm tăng nguy cơ mắc chứng mất trí nhớ.
• Bệnh ngoài da. Mẫn cảm với bức xạ UV bị giảm, công việc của tuyến bã nhờn được cải thiện, quá trình viêm giảm.
• Bệnh về đường tiêu hóa. Các triệu chứng của viêm loét đại tràng và bệnh Crohn bị suy yếu. Trong một số trường hợp, việc sử dụng axit béo không bão hòa đa gây đầy hơi, tiêu chảy, ợ hơi và đầy hơi.
• Phụ khoa. Chuyển hóa estrogen cải thiện.
• Ung thư Nguy cơ ung thư tuyến tiền liệt, vú, dạ dày và đại tràng giảm.
Các chuyên gia khuyên bạn nên sử dụng mỗi ngày không quá 3000 mg omega-3, để không gây ra tác dụng phụ. Đối với trẻ em đến 3 tuổi, liều tối ưu hàng ngày là 900 mg, trên 3 tuổi - 1200 mg.